Lịch sử, kiến trúc Đình Tân Thạch

Đình Tân Thạch

Ngôi đình được khởi công xây dựng vào năm 1841, do ông Nguyễn Quý Bằng hiến đất và vận động nhân dân tham gia đóng góp. Đình được xây dựng trong một khuôn viên rộng lớn với tổng diện tích hơn 7.600 m2, trong đó, diện tích mặt bằng của ngôi đình khoảng 1.250 m2. Theo thứ tự từ ngoài vào trong có:

Cổng tam quan xây bằng gạch, mái lợp ngói. Hai bên cổng ra vào có đắp nổi 2 câu đối bằng chữ Việt (do được xây dựng trong mấy năm gần đây):

Cân bằng phong vũ/ mang gió mùa biển cả/ ổn định xã Thạch Hồ,Trợ sức thiên nhiên/ đem châu thổ sông Tiền/ đắp bồi vùng Rạch Miễu.

Trước sân đình có bức bình phong bằng đá cao khoảng 3 m, chạm nổi hình rồng và hổ theo mô típ "long bàn hổ cứ" (rồng cuộn hổ ngồi) để miêu tả thế đất chắc chắn bền vững, vừa tiện lợi cho việc phòng thủ giữ gìn, vừa phù hợp với việc phát triển phồn vinh, để lại cho con cháu muôn đời [1]. Hai bên có hai câu đối bằng chữ Hán:

Hổ cứ sơn lâm phù xã tắcLong du nguyệt điện tráng sơn hà.

Bên trái của bức bình phong là miếu thờ Sơn quân, bên trong thờ thần Hổ (được xem như vị thần hộ vệ, giữ cửa, ngăn chặn tà ma). Bên phải của bức bình phong là miếu thờ thần Thổ địa và thần Hà bá, bên trong có bài vị ghi "Long thần Thổ địa, Hà bá thủy quan tôn thần". Đây là hai vị thần, một vị cai quản đất đai, một vị cai quản vùng sông nước. Đặc biệt trong miếu còn thờ 3 hòn đá, thể hiện tín ngưỡng thờ Neak Tà (tức ông Tà) của người Khmer bản địa, thể hiện sự giao lưu và tiếp biến văn hóa của lưu dân Việt khi đến định cư nơi vùng đất mới.

Đình có cấu trúc hình chữ "tam" (三) liền mái, trụ vững chắc trên nền móng kè đá xanh với những hàng cột được dựng bằng gỗ lim. Mái đình lợp ngói âm dương, trên có trang trí hình lưỡng long tranh châu, cá hóa long và bát tiên. Nền đình lót gạch tàu, các cột, kèo, đòn tay được kết dính với nhau bằng kỹ thuật mộng chốt. Khu vực chính của đình gồm có 3 gian là: võ ca, võ quy và chính điện được xây dựng liền nhau.

Bên trong đình-Võ ca là một gian trống trải với 3 căn, 2 chái. Đây là nơi diễn ra hoạt động xây chầu, hát chầu (hát bội) vào các dịp lễ Kỳ yên.-Võ quy gồm 5 căn, 2 chái, các thanh xà ngang được nối xuyên qua từng đôi cột cái với nhau (kiểu nhà xuyên trính), dùng làm nơi hành lễ tế thần.-Chính điện là tòa nhà trung tâm của đình, được xây theo kiểu nhà 3 căn, 2 chái rộng rãi. Phía trước gian chính điện, trên bàn thờ bên phải có hai bài vị ghi: "Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Thần" và "Thủy Đức nương nương", còn bàn thờ bên trái có 2 bài vị ghi: "Chúa Xứ Thánh Mẫu nương nương" và "Thái giám Bạch mã mộc trụ ngũ phương tôn thần". Giữa nhà chính điện thờ Quốc tổ Hùng Vương, kế đến là tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Gian cuối cùng có khánh thờ thần Thành hoàng (vị thần được chính trong đình) được sơn son thiếp vàng. Bên trái và phải có các bàn thờ: Tả ban, Hữu ban, Tiền hiền, Hậu hiền, Đông trù tư mệnh thủ thần quân.

Nối liền với chính điện còn có nhà trù (nhà bếp) và nhà tiền vãng. Trong nhà tiền vãng có 3 khánh thờ, để thờ các bậc "tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai cơ".